(Xây dựng) – Tiến sĩ Phạm Nguyễn Anh Huy – Giảng viên cấp cao bô môn Tài chính, Đại học RMIT đã nhận định ảnh hưởng của việc một số ngân hàng Nga bị loại khỏi hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT.
Tiến sĩ Phạm Nguyễn Anh Huy – Gỉang viên cấp cao bộ môn Tài chính, Đại học RMIT. |
Theo Hiệp hội SWIFT Nga, có khoảng 300 ngân hàng và tổ chức tín dụng của Nga nằm trong hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT. Hiện tại, Liên minh Châu Âu mới chỉ loại 7 ngân hàng Nga khỏi hệ thống SWIFT trong khuôn khổ các lệnh trừng phạt bổ sung liên quan đến chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine. Đây là những tổ chức tài chính có quan hệ mật thiết với Chính phủ Nga và các chiến dịch quân sự do Nga phát động.
Ngoài ra, Liên minh Châu Âu cũng chưa đưa các ngân hàng lớn có vai trò chủ chốt trong giao dịch dầu khí như Sberbank anh Gazprombank vào danh sách trừng phạt, thể hiện sự thận trọng nhất định để tránh các tác động quá tiêu cực tới các tổ chức liên quan ngoài Liên bang Nga.
Tiến sĩ Huy cho biết, việc thanh toán của Việt Nam cho các đối tác Nga và ngược lại hiện nay sẽ bị ảnh hưởng một cách nhất định bởi lệnh trừng phạt này, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có phát sinh giao dịch với các ngân hàng nằm trong lệnh cấm.
Ông cho rằng, nếu như Nga bị loại hoàn toàn ra khỏi hệ thống SWIFT thì vấn đề sẽ nghiêm trọng hơn. Việt Nam sẽ không thể thanh toán cho bất cứ đối tác Nga nào và ngược lại không có đối tác Nga nào có thể thanh toán cho các tổ chực Việt Nam thông qua hệ thống SWIFT.
Nếu điều này xảy ra, Việt Nam có thể tìm đến những giải pháp thanh toán như sau: Việt Nam có thể cân nhắc sử dụng hệ thống SPFS của Nga (một hệ thống giống SWIFT được phát triển cho các ngân hàng Nga) thông qua các nước trung gian như Trung Quốc, Cuba, Amernia, Thổ Nhĩ Kỳ, Belarus, Uzbekistan hay Kazakhstan; Việt Nam và Nga có thể thiết lâp một hệ thống thông tin liên lạc song phương cho việc thanh toán; Việt Nam có thể trực tiếp tham gia vào hệ thống SPFS của Nga; Việt Nam có thể sử dụng hệ thống thanh toán CIPS của Trung Quốc.
“Đáng lưu ý là các giải pháp trên đều tiềm ẩn rủi do và có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thanh toán giữa hai nước. Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng Việt Nam nên tiếp tục theo sát diễn biến trên thị trường thanh toán quốc tế và các động thái mà các bên có thể đưa ra sắp tới. Nhìn về mặt tích cực, các doanh nghiệp và ngân hàng Việt Nam có thể coi đây là một cơ hội để tìm hiểu thêm về các hệ thống thanh toán khác và chuẩn bị sẵn các phương án dự phòng rủi do thanh toán” chuyên gia Đại học RMIT chia sẻ.
Thu Hằng
Theo