Thứ tư 13/11/2024 16:22 24h qua English RSS
Hotline: 094 540 6866
Trang chủ / Khoa học - Công nghệ /

Hướng dẫn đăng ký các hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp

10:19 | 26/05/2020

(Xây dựng ) - Sau khi nhận được câu hỏi của ông Minh Tú về việc trong Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn liên quan khác cụm từ “bên thứ ba” được đề cập trong đoạn “hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thỏa thuận giữa các bên, nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba…” được hiểu là các bên nào, Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ trả lời như sau.

huong dan dang ky cac hop dong su dung doi tuong so huu cong nghiep
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet).

Khoản 2, Điều 148, Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thỏa thuận giữa các bên, nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý Nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp”.

Theo đó, việc đăng ký các hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp (kể cả hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thứ cấp) tại cơ quan quản lý Nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp (Cục Sở hữu trí tuệ) là không bắt buộc và hợp đồng đó vẫn có hiệu lực theo thỏa thuận giữa hai bên trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp không được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ thì sẽ không có giá trị pháp lý với bên thứ ba.

“Bên thứ ba” tại quy định này được hiểu là các cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác có quyền, lợi ích, nghĩa vụ liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp được chuyển giao theo hợp đồng đó. Trong trường hợp cụ thể mà ông Tú nêu trên, cơ quan thuế không được coi là “bên thứ ba” theo quy định tại khoản 2, Điều 148, Luật Sở hữu trí tuệ.

Kể từ ngày Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP) có hiệu lực với Việt Nam (ngày 14/1/2019), việc đăng ký hợp đồng sử dụng (đối với nhãn hiệu) với cơ quan quản lý Nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp để làm phát sinh giá trị pháp lý theo quy định tại khoản 2, Điều 148, Luật Sở hữu trí tuệ đã được thực hiện theo quy định của Hiệp định này theo nguyên tắc áp dụng pháp luật đối với điều ước quốc tế (quy định tại khoản 1, Điều 6, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và khoản 2, Điều 5, Luật Sở hữu trí tuệ).

Theo đó, hợp đồng sử dụng nhãn hiệu sẽ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba mà không phụ thuộc vào việc đăng ký hợp đồng đó tại Cục Sở hữu trí tuệ.

Tuệ Minh

Theo

Cùng chuyên mục
Xem thêm
...

Tin bài cuối cùng

Không còn dữ liệu để load